Gọi cho chúng tôi Nhắn tin qua facebook Logo zalo Nhắn tin qua zalo

Seiko - Ngược Dòng Quá Khứ Một Cái Tên

Từng là là biểu tượng, là “vũ khí tán gái” một thời bao cấp đầy biến động cùng với những Honda 67, Suzuki Crystal… Được thành lập năm 1881 ở Tokyo, từng là một trong những thương hiệu đồng hồ đại chúng phổ biến nhất thế giới. Ít ai biết được Seiko có 1 lịch sử xa xưa nhiều thăng trầm không kém gì các tên tuổi đồng hồ Thụy Sĩ.

Hãy cùng điểm qua đôi nét về Seiko qua những chiếc đồng hồ để lại nhiều “dấu ấn” lịch sử của hãng.

1. Seikosha Timekeeper (1895)

Người sáng lập nên Seiko, Kintaro Hattori chỉ mới 21 tuổi khi ông mở shop buôn bán và sửa chữa đồng hồ K. Hattori ở quận Kyobashi, Tokyo. 10 năm sau, Hattori hợp tác với một kỹ sư tên là Tsuruhiko Yoshikawa thành lập nhà máy sản xuất đồng hồ Seikosha, tiền thân của Seiko ngày hôm nay. Sau 3 năm đầu chỉ sản xuất đồng hồ treo tường, vào năm 1895, Seikosha cho ra mắt những chiếc đồng hồ bỏ túi, gọi đơn giản là Timekeeper. Seikosha Timekeeper có bộ vỏ bằng bạc đường kính 54.9mm và sử dụng bộ máy nhập khẩu từ Thụy Sĩ, cái tên Timekeeper là do chủ ý của Hattori khi ông nhận ra rằng một cái tên tiếng Anh sẽ giúp cho Seikosha mở rộng khả năng xuất khẩu trong tương lai.

 

2. Laurel (1913)

Rất nhanh chóng, Hattori nhận ra mỏ vàng trong thị trường đồng hồ đeo tay, khi đó vẫn chưa phổ biến và ông tiên liệu nhu cầu về đồng hồ đeo tay sẽ nhanh chóng vượt xa và thay thế dần đồng hồ bỏ túi. Kết quả của phán đoán đó là sự ra đời năm 1913 của Laurel. Khi đó, các công nghệ trong sản xuất đồng hồ hầu hết vẫn phải dựa vào nhập khẩu từ châu Âu, nhưng Laurel ra đời đã đánh dấu một cột mốc quan trọng – Seikosha đã có thể tự khảm men cho những chiếc đồng hồ của mình.

 

3. First Seiko Watch (1924)

Thảm họa động đất Kanto năm 1923 đã phá hủy hoàn toàn Seikosha, từ nhà máy đến kho lưu trữ và các đồng hồ đang sản xuất dang dở. Mặc dù vậy, Hattori vẫn không mảy may e ngại mà ngược lại vẫn có thể tái xây dựng lại Seiko một cách nhanh chóng. Một năm sau đó, tức năm 1924, chiếc đồng hồ mang logo Seiko trên mặt số đầu tiên ra đời (Seiko là từ viết tắt của Seikosha, trong tiếng Nhật có nghĩa là Xưởng Sản Xuất Kỹ Nghệ Cao Cấp).

Việc chọn 1 cái tên thuần Nhật và khó phổ biến như vậy chứng tỏ Hattori đã đủ tự tin chất lượng của những chiếc đồng hồ Seiko sẽ lấn át và làm bá chủ ở phân khúc đồng hồ phổ thông thay cho các đồng hồ châu Âu đắt đỏ với những tiêu chuẩn khắt khe và không bình dân.

 

4. Seiko Marvel (1956)

Seiko đã nhận định Seiko Marvel sẽ trở thành một chiếc đồng hồ mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử của hãng – tự sản xuất bộ máy mà không phải nhập khẩu từ Thụy Sĩ hay bất cứ đâu nữa. Không chỉ có thế, Seiko Marvel còn có hệ thống chống sốc có tên gọi Diashock do hãng phát minh, sau này là một tiêu chuẩn trên mọi đồng hồ Nhật. Seiko Marvel ngừng sản xuất năm 1959, được thay thế bởi Seiko Gyro Marvel với bộ máy tự động cao cấp hơn.

 

5. First Grand Seiko (1960)

Đây được xem là chiếc đồng hồ tốt nhất mà Seiko từng sản xuất, bộ máy cơ Caliber3180 đính 25 viên đá quý và có tần số 18.000 vph, là một trong những chiếc đồng hồ chạy chính xác nhất thế giới. Bất kỳ chiếc First Grand Seiko nào xuất xưởng cũng được cấp chứng nhận kiểm định chất lượng của Seiko (những tiêu chí kiểm định thậm chí còn khắc khe hơn cả chứng nhận chất lượng của Hiệp hội đồng hồ Thụy Sĩ với đồng hồ chronometer).

 

6. Seiko Crown Chronograph (1964)

Với những thành tựu lẫy lừng trong ngành đồng hồ Nhật Bản, không ngạc nhiên khi thương hiệu sản xuất đồng hồ chronograph đầu tiên của Nhật. Câu chuyện bắt đầu vào kỳ Olympic năm 1964 được tổ chức tại Tokyo mà Seiko là nhà tài trợ chính thức về đồng hồ. Seiko đã cung cấp hơn 1.200 chiếc đồng hồ bấm giờ các loại cho các trọng tài, và để kỷ niệm sự kiện này, Seiko đã khéo léo tung ra mẫu đồng hồ chronograph đầu tiên của hãng là Seiko Crown Chronograph vào đúng dịp được nhiều người chú ý. Crown Chronograph sử dụng máy Caliber 5719 được đính 21 viên đá quý.

 

(Còn tiếp…)

 

 

 

Ngày .